Sunday, October 16, 2016

Cuộc khủng hoảng văn hóa và yêu cầu chấn hưng nghệ thuật Việt

Bức tranh tổng thể của nghệ thuật hiện nay cho thấy có quá nhiều điều mà nếu không sớm thay đổi sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền nghệ thuật nước nhà.
Khủng hoảng văn hóa và hiện trạng một số ngành nghệ thuật
Chúng ta đang đối mặt với một thực tế phũ phàng, đó là: Sự khủng hoảng văn hóa trong đời sống xã hội hiện nay, trong đó có các ngành nghệ thuật. Nhiều nhà hoạt động văn hóa, nghệ thuật than thở: “Bao giờ trở lại... ngày xưa” - cái thời mà văn hóa nghệ thuật hoạt động tưng bừng, sôi nổi; và những người làm nghệ thuật đầy tinh thần say mê, hứng khởi, sáng tạo và cống hiến...
Chưa xa, thập niên sáu mươi của thế kỷ trước, với chủ trương lớn của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lớp lớp các nghệ nhân, nghệ sĩ, các nhà hoạt động nghệ thuật đã háo hức, phấn khởi đi vào thực tế cuộc sống tìm hiểu, nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi, chấn hưng nhiều loại hình nghệ thuật và nghệ thuật dân gian có nguy cơ mai một. Rồi một lực lượng không nhỏ những người làm nghệ thuật được đào tạo bài bản ở nước ngoài về, đã cùng tạo dựng nên diện mạo nghệ thuật đáng tự hào của giai đoạn đó cho đến cuối những năm tám mươi của thế kỷ trước.
Khi xã hội Việt Nam chuyển động theo hướng đổi mới, cũng bắt đầu sự “nhảy múa” của nhiều loại hình nghệ thuật theo vòng quay thị trường. Lâu nay khi nói đến sự yếu kém của văn hóa - nghệ thuật, người ta hay đổ lỗi cho đời sống thị trường, kinh tế thị trường, như vậy thật chưa thỏa đáng. Thật là nghịch lý khi kinh tế và đời sống của chúng ta mỗi ngày một khấm khá lên, hiện đại hơn thì đời sống văn hóa, tinh thần lại kém đi và hỗn loạn. Nghị quyết Trung ương 9 của Đảng đã nêu rõ: “Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn.”. Chưa bao giờ mọi giá trị trong cuộc sống lại bị đảo lộn như hiện nay; đặc biệt là những giá trị văn hóa, nghệ thuật, nhân phẩm. Con người hôm nay được thụ hưởng mọi thành quả sáng tạo của khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh tế; nhưng đồng thời cũng thật nghèo nàn, rỗng tuếch và lệch lạc biết bao về hưởng thụ văn hóa nghệ thuật.
Khủng hoảng văn hóa không chỉ ở nước ta, một số quốc gia khác cũng đang trong “căn bệnh thời đại”. Xin trích dẫn đánh giá của nhà văn Nga I.M. Poliakov, Tổng biên tập Văn báo, Ủy viên Ủy ban Văn hóa Phủ Tổng thống Nga: “Truyền hình, sân khấu, âm nhạc, âm nhạc quần chúng... bị suy thoái rõ rệt. Dẫn đến sự xuất hiện của thế hệ những công dân có trình độ văn hóa thấp kém. Chúng ta sẽ hiện đại hóa đất nước cùng những người như vậy sao? Song đây lại là vấn đề mà những kẻ mang tâm lý buôn bán không quan tâm...” (“Công chức Nga thời nào tốt hơn”, báo Văn Nghệ, 6-8-2011). Điểm mặt những ngành nghệ thuật bao gồm: Sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật, âm nhạc, kiến trúc, múa, thấy rõ rằng Mỹ thuật và Nhiếp ảnh không có sự suy thoái, mà vẫn đang đồng hành cùng thời đại. Nhiếp ảnh có lẽ là ngành nghệ thuật duy nhất tiếp cận và ngang bằng với trình độ quốc tế. Phải chăng sự sáng tạo của hai ngành này mang dấu ấn cá nhân rõ nhất, cũng như sự tác động vào đời sống và đời sống tác động đến nó không lớn lắm! Chỉ một bộ phận công chúng cảm thụ và hiểu được tác phẩm. Các ngành còn lại là các loại hình nghệ thuật mà tác phẩm là sự sáng tạo tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật, của nhiều người; và công bố tác phẩm cũng cần đến số đông. Do đặc điểm loại hình mà sự tác động vào đời sống của sân khấu, điện ảnh, âm nhạc là vô cùng lớn.
Mấy chục năm nay, âm nhạc đã hầu như là sự thả nổi, buông xuôi; khiến mọi ngõ ngách từ thôn quê hẻo lánh đến giường ngủ sang trọng chốn thị thành đâu đâu cũng vang lên những giai điệu, lời ca sặc mùi sến, não tình... Và đến hôm nay, thôi thì ngập tràn đủ mọi thứ hỗn tạp trong thị trường âm nhạc. Âm nhạc đích thực cứ thưa vắng dần, hình như người dân chỉ còn biết đến những ca khúc quần chúng, và âm nhạc Việt Nam là chỉ có thế hay sao! Chúng ta đã từng có một nền điện ảnh cách mạng trong sáng, đầy chất lãng mạn và tính nhân văn (tuy non trẻ), của những thập niên 60, 70, 80 của thế kỷ trước; với nhiều gương mặt nghệ sĩ đáng tự hào. Hôm nay, điện ảnh “quốc doanh” một năm sản xuất được khoảng 7, 8 bộ phim. Làm xong, chiếu cho quan chức ngành, cho nhà báo, xong cất vào kho. Còn phim truyền hình trên các kênh sóng, nhiều phim dở đến mức “không chịu được”. Sân khấu đã từng là thánh đường nghệ thuật, là môn nghệ thuật đi tiên phong trong trào lưu đổi mới; ngày nay sống lay lắt nhờ chút tiền bao cấp của Nhà nước, bởi diễn thì quá ít khán giả. Sân khấu truyền thống còn thảm hại hơn nhiều.
Vì sao nên cơ sự hôm nay? Như trên đã nói - là hệ lụy tất yếu của khủng hoảng văn hóa. Nhưng một điều không né tránh là bản thân nhiều loại hình nghệ thuật đã tự hạ thấp mình, trong đó tài năng và nhân cách người nghệ sĩ có những sa sút trầm trọng.
Con người, yếu tố quyết định  
Nhìn vào bức tranh tổng thể “chiến lược con người” của nghệ thuật hiện nay mới thấy còn quá nhiều điều mà nếu không sớm thay đổi sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nhiều ngành nghệ thuật nước nhà.
Các ngành âm nhạc, điện ảnh, sân khấu ngày trước đều được Nhà nước gửi đi đào tạo tại nước ngoài (Liên Xô, Trung Quốc, Bungari, Hung gari, Tiệp Khắc...). Nhờ thế, chúng ta có một đội ngũ khá đông những người làm nghệ thuật được đào tạo bài bản, có kiến thức phong phú, là lực lượng nòng cốt của các đơn vị nghệ thuật. Cũng chính họ là những người hoạt động nghệ thuật xuất sắc, những cánh chim đầu đàn của các môn nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, sân khấu, múa, kiến trúc... Song hành là đội ngũ những nghệ sĩ, nghệ nhân trưởng thành từ sự bồi đắp của cuộc sống, từ sự nỗ lực tự vươn lên, đặc biệt trong những nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương, quan họ, ca trù, xẩm, âm nhạc dân gian... Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cũng đồng thời chấm dứt đào tạo nghệ thuật tại nước ngoài (học tập tại hệ thống XHCN cũng mới chỉ là tiếp cận được với một phần văn minh, nghệ thuật của nhân loại). Tài sản con người quý giá ấy, nhiều người nghỉ hưu đã lâu, lớp cuối cùng được đào tạo ở nước ngoài thì nay cũng cận kề tuổi hưu.
Ở các ngành nghệ thuật, đặc biệt nghệ thuật truyền thống thì những nghệ nhân lừng lẫy nay không còn ai. Nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu - nghệ nhân cao tuổi nhất cũng đã giã biệt cõi nhân gian mới đây ở tuổi ngoại chín mươi. Đối với các ngành âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, múa, thì đào tạo ở nước ngoài rất quan trọng, bởi lẽ nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động đào tạo tại nước ngoài là những dịp để văn hóa nghệ thuật Việt Nam tham gia hội nhập và giao lưu quốc tế. Hơn hai mươi năm nay việc đào tạo những tài năng nghệ thuật theo hướng gửi đi học ở nước ngoài đã hầu như vắng bóng. Và tất nhiên, việc đào tạo sẽ dồn lên những đơn vị trong nước. Trong khi, việc đào tạo trong nước còn quá nhiều bất cập và yếu kém. Vì thế nên, sản phẩm con người qua đào tạo nghệ thuật ở các trường trong nước cứ teo tóp và yếu kém dần. Những “sản phẩm con người” ấy lại tham gia các hoạt động nghệ thuật đang diễn ra hàng ngày hàng giờ, trong một môi trường văn hóa nghệ thuật, đời sống đang khủng hoảng thì làm sao những giá trị nghệ thuật đích thực được tỏa sáng và phát triển. Các nghệ nhân, nghệ sĩ đầu đàn cứ mỗi năm lại trống vắng, mà mỗi người ra đi là mang theo cả một kho tàng nghệ thuật họ tích lũy cả một đời người mới có được. Nếu chiến lược con người cứ “hờ hững” như những năm trước, liệu vài chục năm nữa chúng ta sẽ còn lại những gì?        
Chấn hưng nghệ thuật: yêu cầu bức bách
    Trong đời sống nghệ thuật hiện nay nhìn vào khâu nào cũng bộc lộ những yếu kém, khập khiễng... Lẽ dĩ nhiên, đây đó ở lĩnh vực này hay lĩnh vực kia vẫn còn có những con người làm nghệ thuật có đầy đủ tài năng và phẩm hạnh.
Nghị quyết Trung ương 9 đã đánh giá sáng suốt và thấu đáo hiện trạng văn hóa nghệ thuật nước ta hiện nay. Một hoạch định chiến lược và lâu dài đã được đề ra. Có thể nói đây là một cuộc chấn hưng văn hóa nghệ thuật Việt Nam: “Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước. Từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam. Đổi mới phương thức hoạt động của các Hội Văn học nghệ thuật nhằm tập hợp, tạo điều kiện để văn nghệ sĩ hoạt động tích cực, hiệu quả. Khuyến khích nhân dân sáng tạo, trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.”.
Nghị quyết cũng khẳng định rõ ràng: “Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế”.
Ngày hôm nay là quá khứ của ngày mai. Vậy hôm nay chúng ta để lại những tinh hoa gì của văn hóa - nghệ thuật cho hậu thế? Trả lời câu hỏi đó cũng là thêm một lần nhận ra rằng, việc chấn hưng văn hóa nói chung, nghệ thuật nói riêng là yêu cầu bức thiết và khẩn cấp của thời đại.

Văn Hải (tổng hợp)

No comments:

Post a Comment

Popular Posts